(*Nếu cần, bấm hai lần vào Tựa Bài để mở bài).
HỒ ĐỘNG ĐÌNH
(phần 1).
Nguyễn Xuân Quang
LTG
.Bài viết về hồ Động Đình này gồm hai phần: một phần là Hồ Độnh Đình nhìn tổng quát và một phần là Hồ Động Đình và Truyền Thuyết Việt.
.Cám ơn anh Đỗ Ngọc Thành, một nhà khảo cứu chữ Hán và chữ Nôm cổ Bách Việt đã giúp chuyển các bài thơ chữ Hán qua Hán Việt và Việt ngữ cũng như đã góp ý.
*
Trên con đường Đi Theo Dấu Chân Quốc Tổ Đại Tộc Việt để khảo cứu về nguồn cội, tìm cái căn cước Việt khởi đầu đi từ truyền thuyết vua thế gian đầu tiên Kì Dương Vương của nước Xích Quỉ (Người Mặt Trời) lấy con gái Long Vương ở Hồ Động Đình sinh ra Lạc Long Quân, trước tiên chúng tôi tìm về Hồ Động Đình. Theo truyền thuyết Hồ Động Đình là cội nguồn của Đại Tộc Việt, của Bách Việt. Từ Los Angeles, chúng tôi tới Thượng Hải làm bàn đạp xuống Trường Sa (Changsha), tỉnh Hồ Nam để rồi tới Hồ Động Đình. Tiện thể chúng tôi cũng thăm viếng Triển Lãm Quốc Tế Thượng Hải 2010.
Theo Lĩnh Nam chích quái thì biên cương phía bắc của nước Văn Lang lên tới hồ Động Đình, xa hơn các đỉnh Ngũ Lĩnh vài trăm dặm về phía Bắc..
Cũng nên biết Lĩnh Nam là phần đất phía nam của rặng núi Nam Lĩnh (rặng núi Lĩnh ở phía nam), một trong năm ngọn núi Lĩnh gọi là Ngũ Lĩnh. Lĩnh Nam gồm những vùng phía nam tỉnh Hồ Nam, tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, một phần Vân Nam và Bắc Việt Nam. Ngày nay Quảng Châu thủ phủ của Quảng Đông vẫn còn dùng từ Lĩnh Nam để tự gọi mình.
Trường Sa (tiếng Hoa giản thể: 长沙; tiếng Hoa phồn thể: 沙; pinyin: Chángshā; Wade-Giles: Chang-sha), thủ phủ tỉnh Hồ Nam. Tỉnh này nằm ở phía nam hồ Động Đình nên mới có tên là Hồ Nam. Trong khi Hồ Bắc ở phía bắc hồ Động Đình (cần phân biệt với Hoa Nam và Hoa Bắc).
Trường Sa có diện tích: 11.819 km², dân số 6.017.600 (theo thống kê dân số năm 2003).
Di tích khảo cổ học cho thấy hơn 3.000 năm trước đã có cư dân sống ở đây. Đến năm 202 Trước Tây Lịch, đây đã là một thành kiên cố. Thời nhà Hán đây là kinh đô của Vương quốc Trường Sa. Trong thời Tam Quốc, Trường Sa là một chiến trường ác liệt. Thời nhà Tùy, Trường Sa là một huyện.
Trường Sa ở hạ lưu sông Tương Giang (湘江) hoặc Tương Thủy (湘水), một nhánh sông Dương Tử (Trường Giang). Tương Giang bắt nguồn từ huyện Lâm Quý của khu tự trị của tộc Tráng (Zhuang), ở Quảng Tây.
Ngoài hồ Động Đình ra, Hồ Nam có vài nơi cần thăm viếng như Bảo Tàng Viện nổi tiếng thế giới Đồi Mã Vương (馬王堆, Mawangdui), Bảo Tàng Viện Mao Trạch Đông ở Trường Sa và đi xa hơn (khoảng 270 km) là khu nghỉ mát thần tiên, kỳ vĩ Vũ Lăng Nguyên (Wúlingyuán) đã được UNESCO nhận là Di Sản Thế Giới.
Ngày đầu chúng tôi ghé thăm Bảo Tàng Viện Mã Vương Đồi. Khu đồi cao Mã Vương là khu mộ cổ nhà Tây Hán (khoảng 186-165 Trước Tây Lịch). Mộ bắt đầu được khai quật vào thập niên 1970, trong đó có thi hài của bà Tân Truy (辛 追) được ướp vẫn còn trong tình trạng tốt. Người ta cũng tìm thấy trong mộ phiên bản sớm nhất của Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Đây là một bảo tàng viện báck khoa của thời Tây Hán (sẽ có bài viết riêng về Bảo Tàng Mã Vương Đồi).
Sau đó tới thăm Bảo Tàng Viện Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông bắt đầu sự nghiệp chính trị ở Trường Sa. Ông đã học ở Trường Sư Phạm Số 1 Hồ Nam từ 1913 đến 1918. Sau đó ông trở thành giáo viên rồi hiệu trưởng từ 1920-1922. Văn phòng làm việc của ông tại trường thời đó nay dùng làm bảo tàng. Bảo Tàng Viện Mao ở đây rất khiêm tốn và không trưng bầy một chút gì về cuộc đời chính trị sau này.
Ngày hôm sau chúng tôi lên đường tới hồ Động Đình. Đây là chủ đích của chúng tôi. Đến Trường Sa mục đích chính là để tiếp cận hồ Động Đình.
Tìm về hồ Động Đình với một tâm hồn đầy ắp huyền thoại Bách Việt như đi vào một giấc mơ, đi trong huyền thoại trở về nguồn cội từ thuở khai thiên lập địa, từ thuở hồng hoang, từ thuở khai sinh của dòng giống Xích Quì, dòng giống Bách Việt.
Hồ Động Đình ( 洞庭湖; phiên âm: Dòngtíng hú; Wade-Giles: Tung-t’ing Hu) là một hồ lớn, ở phía Đông Bắc tỉnh Hồ Nam. Hồ Động Đình là một thứ biển hồ điều hòa lưu lượng nước của sông Dương Tử tương tự như biển hồ Tonlé Sap điều hòa lưu lượng nước của hạ lưu sông Mekong ở Campuchia. Kích thước của hồ phụ thuộc vào mùa, nhưng về tổng thể hiện nay là hồ nước ngọt có diện tích lớn thứ nhì tại Trung Quốc sau hồ Bà Dương (鄱陽湖). Thật ra ngày xưa, về thời nhà Hán, với đầm lớn Vân Mộng (雲夢大澤 – Vân Mộng đại trạch) nằm ở phía bắc hồ Động Đình, ở tỉnh Hồ Bắc, Động Đình là hồ lớn nhất Trung Quốc và được gọi là Bát bách lý Động Đình (八百里洞庭 – Hồ Động Đình tám trăm dặm). Ngày nay, một phần hồ đã biến thành đất trồng trọt nên Động Đình mới trở thành hồ lớn thứ hai sau hồ Bà Dưong. Hồ rộng lớn nhất vào mùa nước lũ từ tháng 7 tới tháng 9 từ sống Dương Tử đổ vào hồ. Diện tích tăng lên gần gấp mười lần vào mùa nước lũ.
Bản đồ hồ Động Đình Dongting lake: Sông Dương Tử Yangtze có đập Tam Hợp Three Gorges (có ngôi sao) đổ vào hồ Động Đình.Ngoài ra còn có bốn con sông khác: Sông Tương Xiang chẩy qua Trường Sa Changsha, sông Tư Giang Zi, sông Nguyên Yuan, sông Lễ Li cũng đổ vào hồ Động Đình.
Ngoài sông Dương Tử ra, hồ còn được bốn con sông khác đổ vào là Tương Giang, Tư Giang, Nguyên Giang và Lễ Thủy. Ngoài ra sông Tiêu đổ vào sông Tương gần Trường Sa trước khi sông Tương đổ vào hồ vì thế khúc sông này được gọi là Tiêu Tương. Sông Tương, Tiêu Tương là những con sông nổi tiếng được nói tới rất nhiều trong văn chương Trung Hoa và Việt Nam. Hồ Động Đình phong cảnh thần tiên được mệnh danh là Tiêu Tương Hồ Nam.
Tỉnh Hồ Nam là châu thổ sông Tương nên Hồ Nam có khi gọi tắt là Tương theo tên con sông nổi tiếng này. Sông Tương thường liên kết với chia ly. Tương trúc là thứ tre đốm quí ở tỉnh Hồ Nam, đốm có hình giọt nước mắt (xem dưới). Truyền thuyết Việt cũng ghi rằng Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay nhau ở cánh đồng Tương…
Tàu thuyền lớn có thể đi từ sông Tương tới Trường Sa. Rất tiếc hồ Động Đình ngày nay đã thương mại hóa nhiều.
Giữa hồ có một đảo lớn tên là Quân Sơn (Junshan, 君山). Ngày trước phải dùng thuyền tầu đi từ bến bên Lầu Lạc Dương (hay Nhạc Dương, YueYang) đi qua đảo. Mới đây một cây cầu vừa xây xong nối từ bờ ra đảo. Thuận đường xe từ Tràng Sa tới, chúng tôi dùng đường cầu ra thăm đảo trước rồi mới tới thị trấn Lạc Dương thăm Lầu Lạc Dương bên bờ hồ.
ĐẢO QUÂN SƠN
Đảo Quân Sơn nguyên gốc gọi là núi Động Đình hay Tương Sơn (Xiangshan). Đảo cách thị trấn Lạc Dương bên bờ khoàng 13 km, chiều rộng 1 km, có 72 đỉnh núi, 36 đình quán và 48 đền. Phong cảnh ở đây đi cùng với hồ thật thần tiên như chốn bồng lai tiên cảnh, đã nổi danh hàng ngàn năm nay. Tương truyền rằng ngày xưa có tiên xuất hiện ở đây. Cảnh sắc thay đổi theo bốn mùa. Về mùa xuân hoa cỏ muôn mầu muôn sắc. Mùa hạ, trời quang mây tạnh là lùc thấy rõ toàn cảnh hồ. Mùa thu khói sương huyền ảo như chốn thiên thai. Đêm đêm văng vẳng vọng lại tiếng hát câu hò của người dân chài trong thinh lặng. Mùa đông là lúc những loài di điểu trở về…
Chúng tôi tới hồ Động Đình vào mùa thu. Rừng cờ lau sậy bạt ngàn ven hồ, phất phơ lay nhẹ trong gió thu.
Rừng cờ lau sậy bên hồ Động Đình ((ảnh của tác giả).
Gần trưa rồi mà khói sương thu còn mịt mù trên mặt hồ.
Khói sương thu huyền ảo mịt mù trên mặt hồ Động Đình (ảnh của tác giả).
Cảnh sắc huyền ảo như trong một bức tranh sơn thủy.
Phong cảnh núi Cửu Nghi (九嶷山) và hai con sông Tiêu, Tương dưới chân núi thường được nhắc đến trong thơ Trung Hoa. Vào thời nhà Tống, việc vẽ tranh phong cảnh vùng này thành một bộ tám bức đã trở thành một trào lưu. Trào lưu này đã lan sang Nhật Bản, nơi những địa điểm nổi tiếng khác đã được thay thế cho sông Tiêu và sông Tương (vi. wikipedia).
Đứng bên hồ mênh mông như biển vũ trụ mà thấy lòng mình mở rộng ra bao la. Dường như thi hứng đang ủ men thơ trong lòng mình. Ngày trước nơi đây là nơi ẩn cư của các đạo sĩ. Bao nhiêu vua chúa, vương giả, tao nhân mặc khách đã tới đây để xa lánh trần tục, tĩnh dưỡng, ngoạn cảnh. Bao nhiêu thi bá, thi hào, thi thánh, thi tiên tới đây đề thơ. Trong đó có thi tiên Lý Bạch có nhiều bài thơ viết về hồ Động Đình. Một bài thơ của Lý Bạch được khắc lên bức tường đá ở đây:
Ngẩng mặt ngằm trời thu trên hồ Động Đình, thi tiên Lý Bạch đang làm thơ.
Dưới đây là phần chuyển qua Hán Việt và Việt ngữ của bài thơ có hàng chữ lớn “Đan thanh họa xuất thị Quân sơn” khắc trên tảng đá ở hình trên và lời ghi chú của anh Đỗ Ngọc Thành.
李白 Lý Bạch
游洞庭五首/其五 Du Động Đình (ngủ thủ-5 bài/ kỳ ngủ-bài 5)
帝子瀟湘去不還。 Đế tử tiêu tương khứ bất hoàn
空余秋草洞庭間。 Không dư thu thảo động đình gian
淡掃明湖開玉鏡。 Đạm tảo minh hồ khai ngọc kính
丹青畫出是君山。 Đan thanh họa xuất thị Quân sơn
Dịch qua Việt ngữ:
Nơi sông Tiêu Tương Vua đi mà không về, chỉ còn cỏ thu ở Động đình gian, gió nhẹ tan sương thấy mặt hồ, nắng lên họa rõ ra là Quân Sơn.
*** Du Động Đình của Lý Bạch có tới năm bài, đây là bài thứ năm và còn nhiều bài khác của Lý Bạch cũng nói về hồ Động Đình…
Bài thơ Lý Bạch làm cả hơn ngàn năm rồi mà vẫn thầy rất đúng ngay trước mắt chúng tôi ngày cuối thu hôm đó: “Gió nhẹ tan sương thầy mặt hồ” và “Nắng lên họa rõ ra là Quân Sơn”.
Và Lưu Vũ Tích (Liu Yuxi) với bài Vọng Động Đình:
Lưu Vũ Tích đang lim dim làm thơ ở Quân Sơn.
Sau đây là phần chuyển qua Hán Việt và ghi chú của anh Đỗ Ngọc Thành:
望洞庭-Vọng Động Đình
刘禹锡-Lưu Vũ Tích
湖光秋月两相和,潭面无风镜未磨。
Hồ Quang thu nguyệt lưỡng tương Hòa, Đầm diện vô phong kính vị ma
遥望洞庭山水翠,白银盘里一青螺
Dao vọng Động Đình Sơn thủy thúy, Bạch ngân bàn lý nhất thanh loa。
Ghi chú :
湖光: Hồ quang, quang là “phong quang, phong cảnh, cảnh quang, phong cảnh của hồ.
秋月: Thu Nguyệt: trăng mùa thu.
两相和: Lưỡng tương hòa, cả hai (cảnh quang của hồ và cảnh trăng thu) cùng hòa chung với nhau…
潭面: Đàm diện: diện của đầm, tức là mặt nước đầm (Hán Việt: Đàm/ thuần Việt: Đầm => thật ra là…giống nhau).
无风: Vô phong : không gió.
镜未磨: Kính vị ma: Kính chưa bị mài (mặt kính chưa bị “mài” trầy, mờ…).
遥望: Dao vọng: …xa “diệu” vợi mà “vọng”/ nhìn…遥/ tiếng Quãng Đông và Triều Châu còn đọc “dieo/遥” như diệu.
洞庭: Động Đình: (sẽ giải thích rõ gốc chữ ở phần Hồ Động Đình và Truyền Thuyết Việt).
山水翠: Sơn thủy thúy, “thúy” là con chim xanh (đẹp) ngày xưa gọi là Thanh Vủ Tước: 青羽雀 (Tước bên tiếng Bắc kinh đọc rất giống âm “sẻ” là “chsé” cũng là “Nôm có trước”), một thứ chim bói cá lông xanh biếc là thúy điểu, sau nầy dùng với nghĩa là đẹp (của màu xanh: rừng xanh, núi xanh, nước trong xanh, ngọc đẹp sáng lung linh ánh trong, xanh.., cái đẹp trong xanh là “Thúy”!
白银: Bạch ngân: bạc có màu trắng…khác với vàng, nước dao động bởi dòng chảy hay gợn gió sóng thường phản chiếu ánh sáng lóng lánh như bạc…
盘里: Bồn lý/Bàn Lý …Trong một cái Bồn (nước), ý so sánh hồ nước như một cái thau nước lớn…
一青螺: Nhất thanh Loa; một con ốc xanh, …nước xanh trong đến độ thấy được con ốc màu xanh!
……
Truyền thuyết, huyền thoại.
Đảo có không biết bao nhiêu là truyền thuyết, huyền thoại, giai thoại. Nổi bật nhất là những truyền thuyết có liên hệ với Long Vương:
. Đền Động Đình.
Theo truyền thuyết có một vị Vua Rồng sống dưới đáy hồ. Đền thờ vị Long Vương này rất uy nghi (sẽ khai triển ở phần Hồ Động Đình và Truyền Thuyết Việt).
Đền Động Đình (ảnh của tác giả).
.Giếng Liễu Nghị (Liu Yi).
Giếng Liễu Nghị là đường xuống thủy cung của Long Vương.
Giếng Liễu Nghị (ảnh của tác giả)
Vì vậy nên từ đời nhà Đường đền được đổi tên là Đền Tưởng Niệm Tương Phi. Đền được trùng tu lại vào đời vua Jia Qing triều nhà Thanh.
Ngày nay cho rằng Lễ Hội Đua Thuyền Rồng trong tết Đoan Ngọ liên hệ với nhà thơ nổi tiếng Khuất Nguyên (Qu Yuan), một người trong hoàng tộc nước Sở, làm chức Tả Đồ cho Sở Hoài Vương. Về sau ông bị thất sủng vì đám nịnh thần và bị vua Tương Vương (người nối ngôi Sở Hoài Vương) đầy ra Giang Nam (phía nam sông Dương Tử). Ông sáng tác bài thơ Ly Tao và Sở Từ, diễn tả tâm sự buồn vì đất nước suy vong với họa mất nước. Sau đó ông gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn ngày mùng 5 tháng 5. Dân địa phương tìm cách cứu vớt ông. Họ dùng chèo khuấy nước xua đuổi cá, làm bánh ú (zhongzi) đem thả xuống hồ để cho cá ăn để khỏi ăn thịt Khuất Nguyên. Kể từ đó, mỗi năm cứ đến ngày mồng năm tháng năm, nhân dân vùng hồ Động Đình tổ chức lễ Đoan Ngọ, Duanwu (Đoan biến âm của Duan- có dua- liên hệ với đũa, dual-,duo-, Phạn ngữ dva- là đôi, hai và wu là ngũ, năm. Ngọ biến âm với ngũ, năm. Duanwu, đoan ngọ là đôi năm, song ngũ, mồng 5 tháng 5). Tại Việt Nam tết Đoan Ngọ chúng ta ăn bánh ú tro (bánh tro gói theo hình bánh ú), cổ tay đeo chỉ ngũ sắc, giết sâu bọ, ăn cơm rượu nếp, đi lên rừng lên núi hái thuốc…
Như thế Lễ Hội Đua Thuyết Rồng ở hồ Động Đình vào ngày mồng 5 tháng 5, lễ Đoan Ngọ thật ra chỉ là một sự phối hợp mà thôi. Thật sự Lễ Đua Thuyền Rồng đã có trước thời Khuất Nguyên và liên hệ với Long Vương, vua Động Đình Hồ (xem phần Hồ Động Đình và Truyền Thuyết Việt).
…….
.Đặc Sản
Đặc sản nổi tiếng nhất của đảo Quân Sơn là trà kim bạc (ngân châm trà). Đọt trà dài đầu nhọn như mũi kim. Lúc mới đổ nước sôi pha trà, trà nổi lên mặt đứng thằng chỉ thiên. Khi ngấm rồi từ từ lắng xuống đáy nhưng vẫn giữ thằng đứng.
Trà ngân châm Quân Sơn (ảnh của tác giả).
Nếm ngụm trà kim bạc‘ngân châm’Quân Sơn.
Trà này là một sở thích của vua Càn Long đời nhà Thanh vì thế trở thành trà ngự dùng tiến vua.
Đảo có những nương trà xanh tươi lượn sóng trên các ngọn đồi. Mùa này trà đang ra hoa. Phần lớn hoa có mầu trắng nhụy vàng nhưng thỉnh thoảng cũng thấy hoa mầu hồng. Hoa giống trà hoa nữ (camelia).
Hoa trà kim bạc (ảnh của tác giả).
…….
Toàn cảnh một phần hồ phải nhìn từ Lầu Lạc Dương (YueYang) ở thị trấn Lạc Dương (岳阳). Lạc Dương hay Nhạc Dương cùng với Ích Dương (益阳), Thường Đức (常德) là ba thị trấn lớn bên hồ Động Đình. Lầu Lạc Dương đã vang bóng, đã lừng danh một thời.
Bữa ăn trưa chúng tôi dùng các đặc sản cá rau từ hồ Động Đình. Ở đây có loại cá đầu to nổi tiếng ngon. Thức ăn Hồ Nam cay xé miệng, vã mồ hôi trán, nóng bỏng như phún xuất thạch mới phun ra từ núi lửa, cay hơn cả chục lần các món ăn Thái và Mễ. Sau bữa ăn trưa chúng tôi lên đường đến Lạc Dương.
(còn tiếp).
Thêm một ngày và thêm một tuổi, con thấy mình càng ngày càng nhỏ bé. Nhiều lúc như muốn thoát ra khỏi cái kiếp cơm áo gạo tiền. Ở tuổi đôi mươi như con thì tìm hiểu những chuyện bs kể và trải nghiệm nó là một ước mơ xa vời và khó thành hiện thực. Cảm ơn bs qua những bài viết đầy cảm xúc và hiểu biết. Nó giống như một truyện của những hiệp khách hành tẩu giang hồ, suốt đời phiêu bạc, chỉ có điều nó chỉ gói gọn trong phạm vi nhỏ của trung hoa chứ không như một thế giới đầy màu sắc từ tây sang đông như bây giờ.
Hãy nuôi ước mơ. Hồi bằng tuôi em bác sĩ cũng nuôi những ước mơ, lúc đó thời chinh chiến cứ tưởng mình chỉ mơ ước hão huyền… Bây giờ, các giấc mơ của những người trẻ như em rất dể thành sự thực.
Sẽ có một ngày…
Nguyễn Xuân Quang
Chúng tôi cũng có tới Thượng Hải. Trên đường đi có ghé thămTây Hồ. Nhưng không có duyên ghé hồ Động Đình như anh chị. Anh Quang đúng là một nhà học giả thứ thiệt. Sự say mê và kiến thức của anhtrong việc nghiên cứu nguồn cội đã và đang để lại những gia tài quý hiếm cho các thế hệ sau. Chúc anh chị luôn an lạc.
Thân mến,
Nguyễn Thái Bình
Hồ Động Đình chưa phải là một điểm du lịch phổ thông. Chúng tôi phải đi theo tua riêng tư (private tour) do mình thiết kế ra trong chuyến đi Theo Dấu Chân Tổ Việt từ bờ Nam sông Dương Tử xuống tới Bản Giốc.
Bác sĩ ơi, cháu cũng muốn thực hiện một chuyến đi như bác sĩ, còn vùng nào bác tâm đắc mà đã đến và chưa đến, bác nói cháu nhé. Chúc bác khỏe. Hôm nào bác có bài về vai trò của Thủy tinh trong văn hóa Việt, bác post nhé.
Cám ơn em.
Em nên đi chu du thiên hạ. Đi với khả năng của mình. Đi để mở rộng sự hiểu biết và tầm nhìn của mình. Đi để yêu người, yêu nhân loại, yêu thế giới và đồng bào, quê hương mình hơn. Đi để thưởng ngoạn những thứ tuyệt vời ở cõi thế gian này… Trong chuyến đi Theo Dấu Chân Tổ Việt từ Hồ Động Đình xuống biên giới Trung Quốc Việt Nam còn một điều rất tiếc là không tìm ra được những dấu tích của Hai Vua Bà Trưng ở Nam Trung Quốc… Còn vài nơi chúng tôi muốn đi tới nữa, thường chọn theo tính cách du lịch văn hóa, nhất là văn hoá liên hệ với văn hóa Việt Nam. Nhưng tình trạng dịch siêu vi Corona này không biết phải chờ tới bao giờ…
Bây giờ em hãy khởi sự đi hết các nơi trong nước đi.
Nguyễn Xuân Quang